Hãy quay về và say đắm em trở lại

Prohaska-Anna-11[Monika_Rittershaus]

Anna Prohaska (1983)

Năm 1960, sau buổi diễn thành công vang dội trong vở Alcina của Handel tại nhà hát La Fenice – nhà hát từng phong tặng danh hiệu La Divina cho Maria Callas, giọng coloratura soprano xuất sắc nhất của thế kỉ XX Joan Sutherland đã được khán giả của nhà hát này xưng tụng là “La Stupenda” (Tuyệt diệu) và kể từ đấy cái tên này gắn bó với sự nghiệp của bà cho đến tận cuối đời.

Alcina kể về nữ pháp sư quyền phép và ngạo mạn đã phải chịu thất bại trước sức mạnh của tình yêu chân chính. Thực ra nội dung của vở opera này hơi lằng nhằng và ngớ ngẩn (với cá nhân ad) không dễ tiếp nhận lắm đối với khán giả hiện đại, tuy nhiên, giống như rất nhiều kiệt tác khác của Handel, Alcina có không ít những aria với giai điệu vô cùng hấp dẫn. Trước thập niên 60, Alcina vốn không phải là kịch mục phổ biến, nhưng đến nay đã có hàng chục phiên bản dàn dựng và ghi âm studio khác nhau và trở thành một trong những vở opera được biết đến nhiều nhất của Handel.

Vai thứ chính Morgana (em gái của pháp sư Alcina) có một aria rất đáng yêu là “Tornami a vagheggiar”. Joan Sutherland cực kỳ thích aria này, nên bà đã yêu cầu chồng mình, maestro R.Bonynge chuyển nó cho vai chính Alcina để mình được biểu diễn, ngay sau đó nó trở thành một trong những trích đoạn để đời của La stupenda và cũng là một trong những phần thể hiện xuất sắc nhất của aria này đến nay. (Tuy vậy phần lớn những dàn dựng sau này đều trả nó về cho nguyên bản cho Morgana)

Bạn hoàn toàn có thể search lại bản thu âm studio hoàn hảo không tì vết của Joan trên youtube, tuy nhiên hôm nay mình muốn giới thiệu phiên bản khác không hề thua kém, phiên bản của giọng soprano Đức (gốc Áo) trẻ đang lên Anna Prohaska. Anna có giọng màu sắc trữ tình khá đẹp với màu âm khác biệt, tuy âm lượng vừa phải, nhưng chính điều đó lại khiến cô trở nên rất hợp với Mozart và âm nhạc baroque. (Hãy nhớ rằng các nhà hát thời kì cổ điển trở về trước có khối tích tương đối nhỏ và dàn nhạc cũng không quá đồ sộ). Cách hát trơ, ít rung cộng với phần biến tấu và cadenza cực kỳ tinh tế ở phần “Da capo” của Anna khiến nó trở nên vô cùng tươi mát, nhẹ nhõm và thú vị.

“Tornami a vagheggiar” vốn được Handel phát triển từ môt aria được viết từ hồi ông còn trẻ, trước Alcina hơn 20 năm, trích trong bản catata “O Come chiare e belle”sáng tác từ năm 1708. Khi bắt đầu hoàn thiện Alcina, ông đã tái sử dụng và sửa chữa lại aria này. Aria nằm ở cuối màn I, khi Morgana, em gái của nữ pháp sư Alcina, thể hiện tình cảm mình với hiệp sĩ Ricciardo, một người nữ giả trang mà Morgana không hề biết. Ricciardo thực chất chính là Bradamante, vị hôn thê của Ruggiero – người đang bị mê hoặc bởi phép thuật và sắc đẹp của Alcina, cô tìm đến hang ổ của chị em Alcina để tìm cách giải cứu cho người mình yêu.

Ngay từ khi được biểu diễn lần đầu tiên, bởi giọng soprano Anh nổi tiếng đương thời – Cecilia Young, “Tornami a vaghegiar” đã rất được khán giả yêu thích. Johann Mattheson, một người bạn Handel, từng mô tả nó là “rất dễ chịu” và “tươi tắn”, với những chuỗi note nhạc melisma nối tiếp nhau cứ bay lên cao dần. Giống như kết cấu của phần lớn các “Aria da capo” thời kì baroque (“Da capo” tiếng Ý có nghĩa là “quay trở lại từ đầu”), “Tornami a vagheggiar” gồm 3 phần: phần đầu giới thiệu giai điệu chính, phần thứ 2 là chuyển điệu, và phần ba – “da capo” (nhắc lại phần đầu), tuy nhiên nó không được “nhắc lại” một các thông thường mà sẽ được các nghệ sỹ virtouso thêm vào nhiều biến tấu, các note trang trí hoa mĩ và các cadenza độc đáo riêng để phô diễn khả năng thanh nhạc, thẩm mĩ và kĩ thuật cá nhân của mỗi người.

Thứ tôi cần chẳng có ở đây…

kurzak_aleksandra10217091_grzegorz_jakubowski

Aleksandra Kurzak (1977)

Trong một bức thư gửi bạn chỉ 2 năm trước khi qua đời, Chopin viết: “Nghệ thuật tôi đã trở thành cái thứ gì thế này? Và trái tim của tôi, tôi đã hoài phí nó ở nơi đâu rồi? Tôi còn chẳng thể nhớ nổi những bài ca mà người ta vẫn thường hát tại quê hương mình nữa…”

Dù phần lớn thời gian sau này sống ở nước ngoài cùng với bao nhiêu vinh quang và đau đớn đã nếm trải, trái tim Chopin vẫn luôn đau đáu hướng về Ba Lan – mảnh đất quê hương của ông, nơi ông sinh ra, lớn lên và trảiqua những thời khắc êm đềm, tươi đẹp nhất.

Không khó có thể nhận ra những cảm hứng từ mạch nguồn văn hóa và âm nhạc dân gian Ba Lan trong các tác phẩm của Chopin, đặc biệt là những ca khúc trữ tình xinh xắn mà ông sáng tác bên cạnh những tuyệt phẩm nổi tiếng viết cho piano.

Tất cả các ca khúc của Chopin đều phổ từ thơ Ba Lan và sau này được nhóm thành tập opus 74. Phần lớn các ca khúc của ông thường rất ngắn, đơn giản và phảng phất nét giai điệu u buồn của những bài Dumka xưa cũ mà Chopin hay được nghe từ nhỏ.

Dưới đây là bài “Nie ma czego trzeba” (Thứ tôi cần không có ở đây) op.74, no.13 với phần thể hiện của giọng colortatura soprano đang lên người Ba Lan, Aleksandra Kurzak. Tác phẩm được viết năm 1845, vào cuối sự nghiệp của Chopin, khi ông vừa chia tay nữ văn sĩ George Sand và đang trong tình trạng khó khăn kể cả về tài chính lẫn sức khỏe.

Bản thu âm này được thực hiện năm 2009 trước khi A.Kurzak được lăng xê bởi hãng ghi âm danh tiếng Decca, tuy vậy địa nhạc này được khá nhiều nhà phê bình khen ngợi và từng thắng giải “Diapason d’Or”.

Dimitrova – a true dramatic voice 2

12507218_422236827974494_4967922901784571733_n

Ghena Dimitrova (1941-2005)

Khi đã hoàn toàn rời xa ánh đèn sân khấu vào cuối thập niên 70, Primadonna nổi tiếng Renata Tebaldi từng cay đắng nhận xét về lứa nghệ sỹ trẻ đương thời – lứa nghệ sỹ mà bà chỉ còn đặt niềm tin vào riêng mỗi Montserrat Caballe và Placido Domingo: “Những giọng hát lớn ngày nay đi đâu hết cả rồi? Giờ chỉ còn toàn là những tiếng muỗi vo ve tin hin quanh đây thôi. Chúng tôi – Milanov, Nilsson, del Monaco, Corelli, và rất nhiều người khác nữa – từng phải mất đi ba-bốn ký lô sau mỗi đêm diễn, áp lực căng thẳng đến từ công việc của chúng tôi mang lại là vô cùng khắc nghiệt! Đó là máu của chúng tôi trao cho khán giả…”.

Những giọng hát lớn đâu? khi mà Freni phải hát Aida, Elisabetta, khi mà Caballe phải hát Turandot, và Renatta Scotto thì cáng đáng từ Gioconda đến …Abigaille – những vai diễn mà ngay cả một giọng spinto Verdian thuần chủng như Tebaldi còn đắn đo cân nhắc hoặc thậm chí chả dám động vào. Chúng ta đều biết rằng những giọng kịch tính kiểu Ý hoàn toàn khác những âm thanh gai góc, sắc cạnh của các giọng Wagnerian. Thập niên 80 phần lớn các giọng kịch tính đều chuyển sang hát Wagner, R.Strauss, trong khi các kịch mục Verdi thì bị ném sang cho những giọng trữ tình hạng nhẹ. Do thẩm mỹ của khán giả đổi chiều? Do sở thích mới của một bộ phận các Maestro trẻ tuổi? Do guồng quay khắc nghiệt của nền công nghiệp biểu diễn? Hay do tất cả? Dường như chỉ còn một người gác đền duy nhất sót lại – Ghena Dimitrova – người vẫn cực đoan giữ gìn truyền thống của những giọng Verdi, Verismo kịch tính lừng lẫy trước đây như G.Cigna, M.Caniglia hay A.Cerquetti.

Tốt nghiệp nhạc viện quốc gia Sofia, Bulgaria, cùng với việc thắng giải một cuộc thi thanh nhạc uy tín trong nước đã mang lại cho Dimitrova cơ hội được tu nghiệp tai thánh đường La Scala của Milan – nơi bà được thụ giáo với giọng Verdian soprano nổi tiếng một thời Gina Cigna. Giọng hát khổng lồ bẩm sinh và âm sắc có phần góc cạnh thô ráp kiểu Đông Âu, sau quá trình rèn rũa trở nên tròn đầy hơn, ấm mượt hơn và (như lời chính Dimitrova là) Ý hơn mà không hề mất đi sức mạnh tự nhiên vốn có. Một giọng kịch tính hoàn hảo cho các kịch mục hạng năng của Verdi hay Puccini.

Nhưng Dimitrova vẫn chỉ nằm chờ thời ở La Scala hàng năm trời mà không nhận được lời mời chính thức nào để được xuất hiện tại nhà hát danh tiếng này. Chỉ đến tận khi Anna Tomowa-Sintow (giọng soprano Bulgaria đồng môn tại nhạc viện Sofia, người mà Dimitrova không mấy nể trọng tài năng) hát tại đây bà mới được La Scala mới hát … đúp 2. Dĩ nhiên là Dimitrova từ chối. Khác với Anna may mắn được Maestro Karajan đỡ đầu nên có một sự nghiệp vô cùng thuận lợi, Dimitrova gặp rất nhiều trở ngại lúc khởi đầu, dù giọng hát ấn tượng và tài năng có thừa.

Với muôn vàn khó khăn về quan hệ với giới biểu diễn, ông bầu, người đại diện và đặc biệt là visa (Bulgaria hồi đấy còn thuộc phe Đông – Cộng Sản trong khi dù lập nghiệp tại Áo, Dimitrova vẫn là nghệ sỹ quốc doanh ăn lương nhà nước và vẫn giữ mối quan hệ tốt đẹp với chính quyền trong nước), trong suốt thập niên 70, Dimitrova lăn lộn khắp các nhà hát Châu Âu nhưng hầu như không gây dựng được tên tuổi gì đáng kể và hoàn toàn vô danh tại Mỹ. Điều đấy một phần làm nên cá tính nghệ sỹ của bà sau này, bảo thủ, xa cách , kiêu hãnh và phần nào trong sâu thẳm tâm hồn vẫn còn ít nhiều tổn thương vì năng lực bản thân không được ghi nhận.

Tất nhiên trời cũng chẳng phụ người tài, đến đầu thập niên 80, bước vào tuổi 40 , Dimitrova bắt đầu được chú ý, đặc biệt từ vai diễn dường như viết riêng cho giọng hát bà – Abigaile tại Berlin, Đức, vai diễn mà Dimitrova đã dám biểu diễn tại quê nhà khi mới tốt nghiệp nhạc viện ở tuổi 25. Ngay sau đó, Dimitrova liên tiếp xuất hiện trong nhiều nhà hát và sân khấu hạng top ở Châu Âu . Năm 1983, Dimitrova tiếp túc chinh phục tới khán giả Mỹ. Sự xuất hiện trong một concert tại Carnegie Hall, New York của bà đã gây chấn động với giới phê bình Mỹ, khi lâu lắm rồi khán giả Mỹ mới được chứng kiến một giọng Kịch tính thuần chất kiểu Ý như vậy. Giọng hát chắc khỏe với âm lượng khác thường được so sánh với Nilsson, Flagstad huyền thoại của Dimitrova làm lu mờ cả những giọng kịch tính đang rất được yêu thích lúc bây giờ là Eva Marton hay Hildegard Behren .

Thế nhưng giống như phần lớn các giọng hát cỡ lớn, ưu điểm của Dimitrova cũng chính là nhược điểm của bà. Mặc dù lấp đầy âm thanh bất cứ khối tích sân khấu khổng lồ nào, nhưng giọng hát bà dường như không có duyên với chiếc micro ghi âm. Khi thực hiện bản thu âm nổi tiếng Nabucco cho hãng DG với vai diễn là thương hiệu của mình – Abigaile, các kĩ sư âm thanh đã yêu cầu bà phải lùi lại phía sau mic vài feet. Ngoài Nabucco, Dimitrova có rất rất ít bản ghi âm studio ấn tượng. Giọng hát của bà trở nên sắc lạnh, xa vời và thiếu lửa trong hầu hết các recital album phòng thu.

Một điểm rất hạn chế khác là Dimitrova khá bảo thủ và nhất quyết không chịu mở rộng kịch mục. Dù được rất nhiều Maestro tên tuổi như Karajan, Muti, Mehta,.., đánh giá cao, Dimitrova chỉ trung thành với những kịch mục thế mạnh ít ỏi của mình trong opera Verdi và Verismo. Điều này trái ngược hẳn với Eva Marton, giọng soprano kịch tính tài năng cùng thời, người chấp nhận thử thách mình ở cả Richard Strauss, Wagner thậm chí là Korngold, Bartok, Schoenberg,…

Thật là khó khăn khi lựa chọn một bản thu âm điển hình của Dimitrova vì tất cả đều ít nhiều không hoàn hảo, mình đã quyết định giới thiệu và làm phụ đề ở đây aria nổi tiếng của Turandot – một trong những vai diễn đem lại danh tiếng cho Dimitrova – aria: “In questa reggia” trích trong recital album hiếm hoi được thực hiện cho hãng EMI năm 1980. Nhận xét về vai diễn đáng sợ này, Dimitrova cho rằng: ”Puccini đã chạm đến giới hạn của mọi khả năng thanh nhạc. Nó không hề là vai diễn yêu thích của tôi. Tôi cố không hát nó với một cơn cuồng nộ đầy khinh miệt như cách thể hiện của một số soprano khác mà thiên về một khí chất có phần hơi thất thường đồng bóng. Khi trong vai Turandot, quyền lực của tôi ở trên tất thảy mọi người. Là một vị công chúa uy quyền, tôi có thể làm tất cả những gì tôi thích.”
—————
Bối cảnh:
Vì bị ám ảnh bởi cái chết của tổ mẫu năm xưa gây ra bởi quân xâm lược Tarta, công chúa Trung Hoa Turandot kiều diễm bị đắm chìm trong lòng hận thù và căm ghét đàn ông đến ghê tởm. Khi vào tuổi cập kê, nàng công chúa băng giá mở một cuộc thi kén chồng với một quy định vô cùng khắc nghiêt: Bất cứ hoàng tử nào muốn cưới nàng làm vợ phải trả lời 3 câu đố của nàng. Nếu giải đúng nàng sẽ chấp nhận thành thân, còn nếu trả lời sai, họ sẽ phải bị bươu đầu trước cổng thành. Nhiều hoàng tử ngưỡng mộ sắc đẹp của Turandot đã đến thử vận may và cuối cùng đều phải nhận kết cục thảm khốc. Rồi một hôm tại kinh thành bỗng xuất hiện một hoàng tử lạ mặt. Chàng là Calaf con vua Tarta lưu lạc tới đây. Một lần vô tình trông thấy Turandot, Calaf lập tức bị mê hoặc bởi nhan sắc khuynh thành của nàng và liều lĩnh tham gia giải đố bất chấp sự can ngăn của mọi người.

Trước khi đưa ra 3 câu đố, Turandot xuất hiện, kể về nỗi ám ảnh năm xưa và cảnh báo trước về cái chết nhãn tiền với chàng hoàng tử bạo gan si tình…
————–
Không thể chê Dimitrova ở một điểm gì trong Turandot, ngoại trừ việc kích cỡ giọng hát của bà dường như khiến bà trở nên lạc quẻ với bất cứ tenor hát chung nào trong đoạn duet Đô cao “Gli enigmi sono tre, la morte una/Gli enigmi sono tre, una è la vita!” (3 câu đố-một cái chết / 3 câu đố – một cuộc đời), bởi vì giọng hát nào cũng dễ dàng bị đè bẹp bởi cơn lốc âm thanh kinh hoàng ấy. Khi viết aria này, có lẽ Puccini trông đợi một sự cân bằng giữa 2 giọng hát hơn là sự vượt trội của ai đó vì đây không phải là trận đấu của các note Đô cao, nó là trận đấu của Tình yêu và Lòng Hận thù. Dimitrova có thể thất bại khi khắc họa một Turandot nằm trong tổng thể vở opera của Puccini, nhưng nhìn nhận riêng rẽ và độc lập, khó có giọng soprano nào trong lịch sử ghi âm có thể vượt qua bà trong vai diễn này, kể cả Nilsson hay E. Turner.

Rigoletto – quartet: “Bella figlia dell’amore”

12222.jpg

Những bản hợp ca là một điểm khác biệt khá độc đáo, xét từ góc độ sân khấu giữa opera và kịch nói. Khi một bản hợp ca cất lên, các nhân vật có khả năng thể hiện tâm trạng, suy nghĩ, cảm xúc cá nhân tại cùng một thời điểm. Đây là điều rất khó xảy ra với kịch nói. Chính Victor Hugo đã phát hiện ra điểm lý thú này và khen ngợi hết mực tài năng của Verdi ngay sau khi xem xong vở Rigoletto (kịch bản dựa trên chính vở kịch “Le roi s’amuse” – “Trò tiêu khiển của nhà vua” của Hugo).

Có lẽ Hugo đã nói về bản quartet (hợp ca 4 người) “Bella figlia dell’amore”, một trong những quartet nổi tiếng nhất trong opera. Bối cảnh như sau: Gã Công tước sở khanh buông lời ong bướm ngay khi gặp ả gái giang hồ Maddalena gợi tình, nóng bỏng. Maddalena tỏ ra là một cô nàng từng trải, nửa như hờ hững, bông đùa, nửa như mời gọi, lả lơi. Ở một góc khuất, hai cha con Rigoletto trân trối nhìn cảnh vẽ vãn vờn đuổi lố bịch này. Gilda trong trắng ngây thơ hồi tưởng lại những lời tình đường mật y chang mà gã Công tước đã tán tính cô trước kia, trong lòng dâng lên bao nỗi niềm cay đắng, bẽ bàng. Lão hề gù Rigoletto vừa dịu dàng vỗ về an ủi con gái vừa cố gắng kìm nén lòng căm hận và khát khao muốn tên đểu cáng phải bị trả giá xứng đáng… Một quartet ngắn rất xuất sắc và đầy kịch tính.

Maddalena là một nhân vật mezzo phản diện điển hình (sexy, ma mãnh, thủ đoạn) khá thú vị, nhưng rất tiếc, Verdi lại không tập trung khắc họa đậm nét và dành cho nhật vật này những aria quan trọng. Phần âm nhạc ấn tượng nhất cho Maddalena chính là trong quartet “Bella figlia dell’amore”, khi những tiếng cười khanh khách mỉa mai của ả như quấn quít với bản serenade của gã Công tước đàng điếm.

“Trong số những nhà soạn nhạc, kể cả trước đây hay bây giờ, tôi là người ít được học hành nhất. Ý tôi ở đây là ít được học hành một cách bài bản, chứ tôi không nói về kiến thức âm nhạc.” Verdi đã thú nhận một cách đấy tự tin như vậy về bản thân mình. Thực tế, Verdi đã học hỏi rất nhiều từ những nhà soạn nhạc trước mình như Bellini, Rossini và đặc biệt là Donizetti – những người đã thiết lập nên trường phái Opera Belcanto lừng danh đầu thế kỉ XIX.

Điểm khác biệt lớn nhất giữa những tác phẩm thời kì đầu và thời kì sau này đó là sự gắn kết giữa tính kịch sân khấu, tính cách, cảm xúc nhân vật với âm nhạc đã trở nên cực kì khăng khít, thuần thục. Đến những tác phẩm thời kì cuối, ông đã gần như dứt ra khỏi sự ảnh hưởng của Bel canto và tạo cho mình 1 phong cách độc lập hoàn toàn.

Rigoletto không chỉ nằm trong số những kiệt tác bất hủ của Verdi mà nó có thể coi là cột mốc ranh giới mở ra thời kỳ sáng tác thứ 2 của nhà soạn nhạc opera vĩ đại người Ý – thời kỳ mà ông đã tự tìm ra phong cách riêng, con đường riêng cho mình. Phần thể hiện “Bella figlia dell’amore” dưới đây trong một production “đội hình toàn sao” năm 2006 với sự tham gia của giọng coloratura soprano tài năng người Rumania – Elena Moșuc, giọng tenor trẻ đang lên người Ba Lan – Piotr Beczała và đặc biệt là một trong những Rigoletto nổi bật nhất của thế hệ này, Leo Nucci.

Offline tháng 9: Phân loại giọng hát trong thanh nhạc cổ điển

Bạn tò mò về các giọng hát trong thanh nhạc cổ điển? thế nào là soprano? mezzo-soprano, thế nào là tenor, baritone?… trong opera họ thường đóng những dạng vai như thế nào? những huyền thoại opera nổi tiếng qua từng thế hệ? v.v…

Hãy cùng đến và tham dự buổi offline tháng 9 với các thành viên của nhaccodien.info qua buổi offline với chủ đề “Phân loại giọng hát trong thanh nhạc cổ điển” để cùng khám phá và chia sẻ chủ đề thú vị nềy! welcome! 😉

Thời gian bắt đầu: 14h00 – Chủ Nhật ngày 25/09/2011
Địa điểm (quen thuộc): Cà phê sách Trung Nguyên, 52 Hai Bà Trưng (xuống tầng hầm nằm dưới thư viện quốc gia Hà Nội).

Lệ phí: Free (Bạn tham gia tự trả tiền nước uống).

Dẫn chương trình: Classical Workgroup

Liên hệ: Việt (Super_vịt) – 0934.66.50.90

Offline: Verdi – O Patria mia – Âm nhạc của lòng yêu nước

Hà Nội – Offline chính thức tháng 6/2011

Thế kỷ 19 là thời kỳ mà nền opera lãng mạn của châu Âu nói chung và nước Ý nói riêng đạt đến đỉnh cao cả về hình thức, nội dung lẫn chiều sâu tư tưởng. Trong bối cảnh đó, không có gì ngạc nhiên khi các vở opera của Giuseppe Verdi là sự kết hợp hài hoà giữa chủ nghĩa lãng mạn và tinh thần yêu nước. Ông đã trở thành niềm kiêu hãnh của cả dân tộc Ý.

Nhân buổi tụ họp chính thức đầu tiên của nhaccodien.info sau khi offline kỷ niệm 5 năm thành công tốt đẹp, chúng tôi chúng tôi quyết định chủ đề offline tháng 6 này sẽ là nhà soạn nhạc Giuseppe Verdi.

Có thể đọc thêm về cuộc đời và sự nghiệp của Verdi tại đây.

Thông tin chi tiết về buổi offline:

Thời gian bắt đầu: 14h00 – Thứ Bảy ngày 18/06/2011

Địa điểm: Cà phê sách Trung Nguyên, 52 Hai Bà Trưng (xuống tầng hầm nằm dưới thư viện quốc gia Hà Nội)
Liên hệ: Việt (Super_vịt) – 0934665090
Đơn vị hỗ trợ âm thanh: Công audio

Nội dung chương trình:

1. Họp mặt, giao lưu giữa các thành viên Diễn đàn nhạc cổ điển Việt Nam cũng như những cá nhân quan tâm muốn tìm hiểu âm nhạc cổ điển.
2. Cùng tìm hiểu về những vở opera đã làm nên tên tuổi cho Giuseppe Verdi.

Lệ phí tham dự:  Vào cửa tự do (tự túc chi phí đồ uống)

Sự tham dự của những cá nhân quan tâm cũng như các thành viên diễn đàn là niềm vui lớn của chúng tôi!

Ban điều hành http://www.Nhaccodien.info
Trân trọng thông báo

chỉ mún chút chít chút chịt thui!…

Elisabeth Anna Söderström, CBE

(1927 – 2009)

Moja pieszczotka

Adam Mickiewicz (1798-1855)

Moja pieszczotka, gdy w wesołej chwili
Pocznie szczebiotać i kwilić, i gruchać,
Tak mile grucha, szczebioce i kwili,
Że nie chcąc słówka żadnego postradać
Nie śmiem przerywać, nie śmiem, nie śmiem odpowiadać
I tylko chciałbym słuchać!

Lecz mowy żywość gdy oczki zapali
I pocznie mocniej jagody różować,
Perłowe ząbki błysną śród korali;
Ach! wtenczas, wienczas śmielej woczęta, woczęta poglądam,
Usta pomykam i słuchać nie żądam,
Tylko całować, całować, całować!

Một sáng tác dễ thương tươi vui hiếm hoi của Chopin! mềnh thík lắm ế! Thích cả chị Suê-đơ-struêm hát bài này. Và thích cả chút chịt nữa … hihi 😛

Download: Frédéric Chopin – Moja pieszczotka, op. 74 no. 12

Elisabeth Söderström – Soprano

Vladimir Ashkenazy – Piano

Recorded at St. Barnabas, London in April – 1984


In memorial of Joan Sutherland – Hội ngộ No.02 – nhaccodien.info

Designed by Cucsat.

See Ya!!! 😛

Gà gô bon chen la liếm

 

K0 chỉ bon chen nhận 1 đống vai baritone sắp tới (Oneghin, rigoletto,…), Gà gô còn đi cổ vũ gà …nhà. Lại còn cố đú theo chân nữ hoàng vào locker room của tuyển TBN. Thật bon chen quá đê!

free counters