Hùng Vĩ!!!

Birgit Nilsson ( 1918-2005)

Trong một bài phỏng vấn Beverly Sills trước khi qua đời, cách đây 4 năm, khi bà được hỏi về sự khan hiếm các giọng ca trẻ xuất sắc trong thời đại này, Sills đã trả lời:  “…Tôi vẫn nhớ buổi diễn “Andrea Chenier” với Tebaldi, del Monaco và Bastianini.  Không, chúng ta không thể có những bản sao giống như vậy được nữa.  Nhưng tôi cũng nhớ đến một buổi diễn “Otello” với Renée Fleming, Domingo và Levine đứng trong hố nhạc. Nó không hề tệ chút nào. Nó thực sự là 1 Otello khá tròn trịa.  Nhưng chúng ta vẫn chưa thể thay thế Nilsson. Chúng ta hiện rất yếu với những giọng hát kịch tính cho opera Wagner và điều ấy quả là đáng buồn…”

Chúng ta đang có Waltraut Meier xuất sắc, đầy cá tính, Jane Eaglen tròn đầy, đa dạng, Nina Stemme ấn tượng và rất thông minh, và còn rất nhiều người khác nữa (D.Voight, E. Westbroek,…). Chúng ta không hề thiếu những Wagnerian voice tốt ở thời đại này, nhưng với tôi, chúng ta k0 thể và không bao giờ thay thế được Birgit Nilsson – một người được sinh ra để hát Wagner.

Birgit Nilsson trong vai Turandot

Nilsson từng nói: “Turandot làm tôi giàu, còn Isolde giúp tôi nổi tiếng“. Turandot đủ làm Nilsson dư  dả đến mức sau khi bà qua đời, số tài sản bà để lại đủ để lập giải thưởng “triệu đô” mang tên mình (giải thưởng có giá trị lớn nhất đến thời điểm hiện tại trong lĩnh vực biểu diễn classical music) cho những người có đóng góp lớn cho opera (và anh gà gô bảnh chọe, khéo nịnh đầm đã may mắn là người đầu tiên được đích thân Nilsson chỉ định cho giải thưởng này ). Vai Turandot – máy chém giọng kinh hoàng và là nỗi ác mộng của các soprano. Dù tổng thời gian hát trến sân khấu chưa đến 30 phút, nhưng lại toàn những note fortissimo ở quãng rất cao liên tiếp nên hiếm có sop nào kể cả true dramatic có thể giữ được nó trong vài năm liên tiếp mà k0 “bỏ vai chạy lấy… giọng”. Vậy mà Turandot đã thành thương hiệu của  Nilsson trong suốt cả sự nghiệp. Nhưng tôi cho rằng Nilsson (hay cả Dimitrova – 1 soprano nổi tiếng k kém với Turandot) k0 phải là Turandot hoàn hảo. Turandot của họ quá xa vời, chói lọi, và nổi bật 1 cách tách biệt như  cái cách mà mọi người trong box vẫn hay nói là … “cô đơn trên cao” (hé hé).  Bản thu âm “In questa reggia” (Turandot) của Nilsson tại Matx-cơ-va năm 65 nhân chuyến lưu diễn cùng La Scala tại Bolshoi cho thấy 1 note Đố vĩ đại khổng lồ chưa từng thấy trong lịch sử  ghi âm (note Đố của tenor hát cùng hoàn toàn bị upstage tan tành thành mây khói). Trường hợp khác tương tự là bản Turandot studio của RCA giữa Nilsson và Björling. Một lần chat với chị Nina cũng kể chuyện Nilsson rất kiêu hãnh phán đại ý rằng “chẳng có tenor nào đủ sức át note Đố của chị ấy khi duet mà k0 dùng tiểu xảo, vì note đố của Soprano luôn cao hơn, sáng chói hơn,…”  rồi khoe khéo chiến công upstage lão tướng Đan Mạch Helge Rosvaenge một cách đầy mỉa mai : ” trong duet của Turandot, Helge Rosvaenge (tenor kịch tính nổi tiếng trước ww2) giơ tay lên, mở rộng miệng và làm 1 động tác kịch tính như thể đang hát 1 note cao nhưng thực tế chỉ có mình tôi hát vậy mà hôm sau các bài báo vẫn viết là Helge Rosvaenge duet cùng tôi”.  Thực ra tôi nghĩ Nilsson là kiểu người hài hước, thích đùa cợt, tự nhiên k0 giữ phép tắc, chứ  bà cũng k0 phải người máu ăn thua đến mức muốn đọ sức với ông cụ ngoài 60t làm gì. Bản Turandot có vẻ như  cân sức nhất với Nilsson có lẽ là bản studio của EMI (với F.Corelli và R.Scotto) mà k biết có tiểu xảo gì của kĩ sư  ghi âm cho Corelli ko. Nhưng xét cho cùng, Nilsson chỉ nên hát Turandot đến hết phân cảnh “3 câu đố của Turandot” mà thôi.

Download:

In questa reggia  – Turandot – Giacomo Puccini

Straniero, Ascolta!…Nella Cupa Notte – Turandot – Giacomo Puccini

Birgit Nilsson (soprano)

Franco Corelli (tenor)

France Molinari-Pradelli (conductor)

Rome Opera Theater Orchestra & Chorus

Recorded in June – July1965

Birgit Nilsson trong vai Isolde

Tôi rất thích Isolde của Nilsson, đặc biệt là bản ghi âm năm 66 tại Bayreuth Festspiele với Böhm chỉ huy. Nhưng, lại thêm 1 chữ “nhưng” k0 mong muốn, đấy cũng k phải là 1 Isolde  như tôi tưởng tượng. Isolde của Nilsson không hề yêu Tristan, Isolde-Nilsson yêu … bản thân hơn. Màn hấp hối “chết vì tình” (Liebestod):  “Mild und Leise” của Isolde trở thành 1 Mad scene… rạo rực chứ chả thấy Mild (mềm mại) với Leise (dịu dàng) j` ráo trọi, keke. Cái bóng khổng lồ của Nilsson không đủ sức để che phủ tượng đài K.Flagstad vĩnh cửu thậm chí chưa chắc đã là quá rộng với đàn em W.Meier trong Tristan und Isolde. Nilsson hát Isolde thừa mãnh liệt, nhưng lại thiếu nồng nàn… Với nhiều người như thế là khó chấp nhận.

Uhm, nhưng tôi vẫn khẳng định Nilsson là fav Isolde của tôi. Tôi vẫn nhớ một trong những bài viết đầu tiên của tôi về opera từ  hồi tham gia box ncd- ttvnol (tiền thân của nhaccodien.info) cách đây 5-6 năm (và hình như bài đấy cũng có đăng lên homepage rồi đc vài site khác copy lại thì phải), đó cũng chính là 1 bài viết về Nilsson . Tôi đã nghe và cảm nhận khi mà tôi chưa có kinh nghiệm gì mấy, chưa biết nhiều, hiểu nhiều về bà, và cả về âm nhạc của Wagner nữa…

Download:

Mild und leise wie er lächelt – Tristan und Isolde – Richard Wagner

Birgit Nilsson (soprano)

Karl Böhm (conductor)

Bayreuth Festival Orchestra

Recorded in 1966

Birgit Nilsson trong vai Brünnhilde

Có thể nếu bạn đủ khắt khe để tìm được những Wagnerian voice cho riêng mình, và k0 thỏa mãn với Nilsson trong Elsa, Elisabeth, Senta, Siegliende, Isolde,… nhưng nếu bạn đã yêu thích opera của Wagner, bạn k0 thể không kiếm 1 bản thu âm của Nilsson trong bộ Ring, khuyên chân thành đấy. Brünnhilde của Nilsson là hoàn hảo tuyệt đối (cả 3 Brünnhilde). Dù là ở bản live hay studio cũng k0 thể có (“không thể” chứ k0 phải “khó có thể”) người vượt qua. Giọng hát đanh thép và sắc lạnh như  những nhát chém dứt khoát của thanh đại đao, miêu tả rõ nét và chân thực vị nữ chiến thần kiêu hãnh, đau đớn và bất hạnh. Tôi k0 có ý định bảo A.Varnay, K. Flagstad, F.Leider,G.Jones, M.Möld…  kém tài hơn hay là những Brünnhilde mờ nhạt, họ vẫn xuất sắc trong cách hiểu, cách thể hiện và sáng tạo nhân vật của riêng họ và cũng là những nghệ sỹ tuyệt vời. Nhưng Brünnhilde chỉ có thể là Nilsson mà thôi.

Tôi ko bao giờ muốn nhắc đến Nilsson như 1 cỗ máy hát, hay là 1 giọng hát chỉ nổi tiếng nhờ âm lượng khổng lồ, nếu bạn chờ đợi quá nhiều điều ấy từ giọng hát và cách thể hiện của Nilsson bạn sẽ thấy nó thật nông cạn và phù phiếm. Nghệ thuật của âm thanh giọng hát, giống như âm nhạc, có 1 sức biểu cảm rất riêng.

Nilsson đã qua đời, nhưng tiếng thét “Hojotoho” hùng vĩ  này  sẽ vẫn vang rền mãi mãi như một dấu ấn không phai mờ của 1 người nghệ sỹ rất đặc biệt mà tôi vô cùng yêu mến.

Download:

Nun zäume dein Ross, reisige Maid – Die Walküre – Richard Wagner

Recorded in October 29-November 19, 1965

Brünnhilde’s Immolation Scene: Starke Scheite schichtet mir dort – Götterdämmerung – Richard Wagner

Recorded in May 20-November 24, 1964

Birgit Nilsson (soprano)

Hans Hotter (Bass-Baritone)

George Solti (Conductor)

Wiener Philharmoniker

Thù này phải trả!!!

rigThực ra chẳng có cái quái j` là thù hận ở đây cả, chỉ là tên 1 cái duet trong Rigoletto mà tớ rất thích:
Về âm nhac, Rigoletto xứng đáng là kiệt tác của Verdi, với sự cân đối trong tất cả các màn, nhiều trích đoạn hay, với một cốt truyện hấp dẫn, gây ấn tượng dựa trên kịch bản của “Nhà vua vui chơi” (Le roi s’amuse) của Hugo. Thật không khó hiểu khi Rigoletto trở thành standard repertoire của hầu hết các nhà hát opera quan trọng.

Màn 1 và màn 3 vốn có nhiều trích đoạn nổi tiếng, thường xuyên được sử dụng trong các gala, festival, concert hay các cuộc thi thanh nhạc. Ngay vào màn 1 đã có một ballad  “questa o quella” đấy hấp dẫn của Công tước, sang đến cảnh 2 đầy mùi mẫn với 1 love duet của Công tước và Gilda, rồi đc chốt hạ bằng “Gualtier Maldé! …Caro Nome” – aria hết sức mơ mộng của cô nàng Gilda. Màn cuối ngoài cái quartet nổi tiếng “Bella figlia dell’amore” thì là quả aria “La donna è mobile” của anh chàng Công tước phóng đãng, phổ biến đến nỗi nó không chỉ còn thuộc về sân khấu opera nữa mà đã đi ra ngoài thế giới âm nhạc đại chúng.

Tuy nhiên màn 2 mới thực sự là quyến rũ và kịch tính nhất và cũng là màn tớ thích nhất. Aria mở màn 2 của công tước không thực sự nổi bật, nhưng liền tiếp là caballetta “Possente amor mi chiama” đầy sôi động với note Rế giáng kết đủ sức làm toàn bộ khán giả đê mê. Khi Công tước còn đang mải cưỡng đoạt Gilda bên trong, Rigoletto ở bên ngoài thì van xin cầu cạnh, rất tội nghiệp, cực kì gây ép phê. Cảnh cuối màn 2 , của 2 bố con Rigoletto được kết bằng duet “trả thù” nổi tiếng. Ở cái duet này, các anh chị liên tiếp show hàng bằng quả Mí giáng (với Sop) và la giáng (với bar) trên nền nhạc sôi nổi, dồn dập kiểu caballetta. YIH xin giới thiệu aria và duet cuối màn 2 cho bà con thưởng thức.

Download: aria/duet : Tutte le feste al tempio – Rigoletto – Verdi
Beverly Sills(soprano), Sherill Milnes (baritone), Julius Rudel (Conductor)
Recorded in 1978-1979

Bối cảnh: Gilda rũ rượi, ê chề bước ra khỏi căn phòng, nơi cô vừa bị chính người yêu mình, công tước Mantua, cưỡng đoạt và thú nhận sự việc với Rigolleto, cha cô. Rigoletto, đau đớn, bất lực trước tình cảnh đáng thương của con gái….

GILDA
Tutte le feste al tempio
mentre pregava Iddio,
bella e fatale un giovine
offriasi al guardo mio…
se i labbri nostri tacquero,
dagl’occhi il cor, il cor parlò.
Furtivo fra le tenebre
sol ieri a me giungeva…
“Sono studente, povero, ”
commosso mi diceva,
e con ardente palpito
amor mi protestò.
Partì… il mio core aprivasi
a speme più gradita,
quando improvvisi apparvero
color che m’han rapita,
e a forza qui m’addussero
nell’ansia più crudel.
RIGOLETTO
Ah!
(da sè)
(Solo per me l’infamia
a te chiedeva, o Dio…
ch’ella potesse ascendere
quanto caduto er’io…
Ah presso del patibolo
bisogna ben l’altare!..
ma tutto ora scompare…
l’altare… si rovesciò!)
(a Gilda)
Piangi, fanciulla piangi…
GILDA
Padre!
RIGOLETTO
…scorrer, scorrer fa il pianto sul mio cor.
GILDA
Padre, in voi parla un angel
per me consolator.
RIGOLETTO
Piangi, fanciulla, usw
Compiuto pur quanto a fare mi resta…
lasciare potremo quest’aura funesta.
GILDA
Si
RIGOLETTO
(E tutto un sol giorno cangiare potè)

GILDA
Vào mỗi ngày, chốn giáo đường tôn nghiêm
Nơi con vẫn đến nguyện cầu, chăm chỉ.
Một chàng trai khôi ngô, tuấn kiệt,
Đứng ở nơi con trông thấy dễ dàng
Dù cặp môi nín lặng, chẳng cất lời,
Nhưng ánh mắt cũng nói lên bao điều trìu mến.
Âm thầm lặng lẽ, đêm qua, chàng đã đến,
Để gặp con trong buổi đầu tiên
“Ta rất nghèo và chỉ là 1 gã sinh viên”
Giọng của chàng nghe sao dịu dàng quá.
Và không chút ngại ngần, chàng bày tỏ,
Những lời yêu thương say đắm nồng nàn
Rồi chàng đi… Bỏ lại trái tim con đập rộn ràng
Chìm đắm trong những giấc mơ ngọt ngào nhất
Bỗng những kẻ lạ, từ đâu xuất hiện
Bằng vũ lực, bắt cóc con,
Mang đến nơi đây
Ôi những sợ hãi , bạo tàn, đắng cay…
RIGOLETTO
(tự than)
Ah!
Ta đã cầu xin ngài, ôi Đức Chúa
những điều ô nhục, hãy dành hết cho ta
Vì con bé cần phải được thanh trong
thay cho những bùn đen ta đã lấm.
Ôi, cần lắm, một ngôi đền linh thiêng, thanh khiết
bên cạnh cái giá treo cổ tàn nhẫn thế kia.
Nhưng giờ đây, tất cả đều đã nát tan
Ngôi đến thiêng ấy cũng không còn nữa.
(vỗ về Gilda)
Hãy cứ khóc, con yêu, khóc đi cho cạn hết…
GILDA
Cha!
RIGOLETTO
…Để nước mắt đắng cay thấm ướt ngực ta.
GILDA
Cha ơi, những thiên thần như đang an ủi con,
Từ những lời cha vỗ về, thủ thỉ.
RIGOLETTO
Hãy khóc đi, con gái yêu thương…
Rồi cha con ta sẽ cùng thoát khỏi nơi đây khốn kiếp
Khi ta xong hết những việc ở đây…
GILDA
Vâng.
RIGOLETTO
(Tất cả đã đổi thay, chỉ trong một ngày, duy nhất!)
**********

Duet: Sì, vendetta, tremenda vendetta
Bối cảnh: Rigoletto đang an ủi vỗ về con gái sau chuyện xảy ra, chợt thấy đám lính gác đang áp giải Monterone, một nạn nhân đã bị Công tước xứ Mantua làm hại. Monterone ngậm ngùi thốt lên rằng, dù Công tước đã bị nguyền rủa, nhưng ông trời vẫn không trừng phạt cho những tội lỗi xấu xa của hắn. Tình cờ nghe thấy lời than thở, lửa hận trong lòng Rigoletto chợt bốc lên…

RIGOLETTO
Sì, vendetta, tremenda vendetta
di quest’anima è solo desio…
di punirti già l’ora saffretta,
che fatale per te tuonerà.
Come fulmin scagliato da Dio,
te colpire il buffone saprà.
GILDA
O mio padre, qual gioja feroce
balenarvi ne gl’occhi vegg’io!..
RIGOLETTO
Vendetta!
GILDA
Perdonate, a noi pure una voce
di perdono dal cielo verrà.
RIGOLETTO
Vendetta!
GILDA
Perdonate,usw.,
RIGOLETTO
No!
GILDA
Perdonate,usw.,
RIGOLETTO
No!
GILDA
Mi tradiva, pur l’amo, gran Dio!
per l’ingrato ti chiedo pietà!
RIGOLETTO
Come fulmin scagliato da Dio,
te colpire il buffone saprà.
—————
RIGOLETTO
Đúng, phải trả thù, trả thù tàn khốc!
Điều duy nhất ta thèm khát bây giờ
Thời khắc trừng phạt ngươi đến rồi
Cái thời khắc cuối cùng của ngươi đó
Như lưỡi tầm sét từ cánh tay của Chúa
Tên hề này quyết quật ngã quỵ ngươi.
GILDA
Ôi cha tôi , niềm vui nào đáng sợ
Đang lóe lên trong ánh mắt của cha!
RIGOLETTO
Thù này phải trả!
GILDA
Hãy bỏ qua, cha có nghe, trên kia
Lời Chúa dạy, rằng hãy biết thứ tha
RIGOLETTO
Thù này phải trả!
GILDA
Xin hãy tha cho chàng!….
RIGOLETTO
Đừng hòng!
GILDA
Xin hãy tha cho chàng!….
RIGOLETTO
Không!
GILDA
Chàng phản bội ta, ta vẫn yêu, lậy Chúa
Xin rủ lòng thương cho kẻ bội ước kia.
RIGOLETTO
Như lưỡi tầm sét từ cánh tay của Chúa
Tên hề này quyết quật ngã quỵ ngươi.
———-
Dịch bởi Yes_Iam_here @ nhaccodien.info

Download:
1.Sì, vendetta, tremenda vendetta – Rigoletto – Verdi
Maria Callas (soprano), Tito Gobbi (baritone), Tullio Serafin (conductor)
Emi/ Recorded in September 1955
2.Sì, vendetta, tremenda vendetta – Rigoletto – Verdi
Joan Sutherland (soprano), Sherrills Milnes(baritone), Richard Bonynge (conductor)
Decca/ Recorded in June 1971

Tìm lại đc cái hình này, nghich tí.

Die Fledermaus với quả casting rất phô trương với Beverly Sills: AdeleJoan Sutherland: Rodenlina !!! (ngoài ra còn có R.Resnik, G.Campora, và dĩ nhiên là chồng Su chỉ huy)- San Diego Opera – Oct 1980.

Tạm biệt Sills, tạm biệt “tiếng chuông bạc” đáng yêu của tôi!

ss

Beverly Sills (25/5/1929 – 2/7/2007)

Tôi vốn là 1 thằng rất thành kiến với các soprano Mẽo trắng, với tôi nước Mỹ chỉ có Soprano da đen hay da màu mới thực sự đáng nghe (như vậy có gọi là phân biệt chủng tộc không nhỉ), đừng hỏi tôi tại sao, cái đất nước có nền văn hóa thẩm cẩm ngũ vị mà nhạt nhẽo ấy chưa bao h có được 1 prima donna da trắng ra hồn, hãy nhìn những June Anderson, Ruth Ann Swenson, hay mợ bơm hơi thổi phồng Renee Fleming đình đám mà xem, tất cả đều do công nghê lăng xê , bơm hút với đủ các thứ tung hê lố bịch. Tôi hầu như chỉ quan tâm đến những blacksingers như L.Price, J.Norman, K.Battle cùng lắm là B.Hendricks, L.Mitchell mà thôi, cho đến khi tôi biết đến Sills:
– Adolphe Adam – Le Toreador: Ah! vous dirai-je maman – Beverly Sills
– Henry Bishop – Comedy of Errors: Lo, here the gentle lark – Beverly Sills

Đây là 2 aria trong đĩa nhạc đầu tiền mà tôi nghe Sills hát. Đấy, đẹp k0!. Trong veo, nhẹ nhàng, tung tẩy từng note nhạc lấp lánh như bạc. Thế rồi 1 Queen Elizabeth (Roberto Devereux ) ấn tượng, 1 Manon phóng khoáng hời hợt, 1 Gilda (Rigoletto) ngây thơ, 1 Elvira (I Puritani) trong sáng, 1 Violetta (La Traviata) cao thượng , 1 Marie (La Fille Du Regiment) nghịch ngợm sôi nổi, … vai diễn nào cũng thật lạ , thật đáng yêu, Sills đã thực sự chinh phục tôi dù tôi đã được nghe hàng chục những soprano huyền thoại thể hiện chúng cực kì hòan hảo rồi.

Sills không bao giờ lên gân, không có những note Mí giáng (e3b) lộng lẫy như Sutherland hay nhiều sop khác. Sills hiểu thế mạnh của mình. Kĩ thuật Trills khiến các color sop ghen tị, tốc độ chạy note như không tưởng, pianissimo gợi cảm, các note hoa mĩ được sáng tạo độc đáo, tinh tế và rất thông minh, những điều đó đủ cho Sills có 1 vị trí vững chắc trong thánh đường opera, nhưng tài năng thực sự cuả Sills không chỉ dừng ở đó, khả năng nhập vai và thể hiện cảm xúc qua giọng hát, đó mới thực sự là điều mà Sills tự hào về mình. Sills sẵn sàng bỏ qua kĩ thuật, sẵn sàng hi sinh những note cao đẹp đẽ, “khước từ vẻ đẹp của âm thanh để tìm đến vẻ đẹp trong ngôn từ và lới thoại” là điều mà Sills tâm niệm. Opera là 1 vở kịch với những nhân vật sống , những bi kịch thật, chứ không phải là một dàn nhạc thanh quản. Sills có thể hát Violetta hàng trăm lần mà k0 lần nào giống lần nào trong cảm xúc. Mỗi 1 vai diễn đều được nghiên cứu, sáng tạo tỉ mỉ . Sills đã thay đổi quan niệm rằng các Color Sop hoàn toàn chỉ là những ca sỹ trình diễn kĩ thuật. Với sự thông minh của mình, Sills đã khiến khán giả phải nhìn sâu vào số phận , tính cách, tâm hồn của những nhân vật nhiều hơn là những staccato, legato, glissando, puntatura, những Mí giáng, Đố thăng,… mà người đời hay quan tâm.
Vincenzo Bellini – I Puritani: Act I: Son vergin vezzosa – Beverly Sills
Jules Massenet – Manon: Act III: Je marche sur tous le chemins – Beverly Sills
Jules Massenet – Manon: Act III: Obeissons quand leur voix appelle – Beverly Sills
Giuseppe Verdi – Rigoletto: Act I: Gualtier Malde!… Caro Nome – Beverly Sills
Giuseppe Verdi – La Traviata: Act I: Sempre libera – Beverly Sills

Mấy ngày trước nhận được tin Sills đang ốm nặng trên giường bệnh vì ung thư phổi, nhưng vẫn hi vọng bà sẽ qua khỏi. Số phận đã nhiều lần giáng xuống những đòn nặng nề với Sills, nhưng bà cũng không chịu gục ngã, với bà:You may be disappointed if you fail, but you are doomed if you don’t try”. Nhưng lần này số phận đã thắng, thế giới đã vĩnh viễn mất đi 1 trong những coloratura soprano vĩ đại nhất thế kỉ!

Entry này để tưởng niệm bà. Giọng hát, nhân cách cũng như những cống hiến nghệ thuật và xã hội của bà sẽ mãi được mọi người ghi nhớ. Tạm biệt Sills, tạm biệt tiếng chuông bạc lấp lánh đáng yêu của tôi!

By YIH – www.classicalvietnam.info